The Blog

Panasonic Lumix G2 được thiết kế như một chiếc máy ảnh SLR kỹ thuật số thu nhỏ. Ảnh: Trần Hà.

Chưa đầy một năm sau khi phát hành chiếc máy ảnh 3 quý siêu nhỏ đầu tiên, Panasonic tiếp tục giới thiệu sản phẩm kế nhiệm Lumix G2. “Người tiền nhiệm” của nó vẫn có thân hình nhỏ gọn nhưng nhờ được trang bị vi xử lý Venus Engine HD II mới, chất lượng hình ảnh và tốc độ thực thi của máy đã được cải thiện đáng kể. Ngoài việc hỗ trợ tương đối tốt các cơ chế điều khiển bằng tay, Lumix G2 còn cung cấp nhiều tính năng thời trang khác nhau, như tự động nhận diện cảnh và nụ cười, màn hình cảm ứng độ phân giải cao, quay video độ nét cao 720p … khử nhiễu kém, vùng đệm nhỏ hơn và dung lượng khá cao. Giá vẫn đáng thất vọng vì nó không có ý chính của phiên bản mới này. -Có hai nút màu đỏ trên đỉnh máy để khởi động nhanh chức năng. Quay video và chụp ảnh tự động thông minh. Ống ngắm mở rộng ra xa nên nếu không gian chụp hẹp sẽ hơi gượng. Ảnh: Trần Hà.

Ngoại hình của máy dường như không có nhiều khác biệt so với người tiền nhiệm G1. Phần tay cầm được bọc hoàn toàn bằng nhựa nên người dùng sẽ có cảm giác hơi cứng tay. Ngược lại, báng cầm có diện tích lớn và độ sâu vừa phải, giúp ngón tay tránh tiếng kêu lạch cạch và đảm bảo cảm giác cầm khá chắc tay khi sử dụng với ống kính lớn. Kích thước ba chiều của Lumix G2 là 124 x 84 x 74 mm, trọng lượng khoảng 428 gram (bao gồm cả pin và thẻ nhớ), trông giống một chiếc máy ảnh SLR kỹ thuật số thu nhỏ hơn là nhỏ gọn và chắc chắn.

Panasonic đã mạnh dạn thực hiện nhiều cải tiến đối với hệ thống điều khiển G2. Nút xoay điều chỉnh thông số di chuyển từ trước ra sau. Nút “Q.menu” và “Chế độ phim” bị bỏ qua trên bảng điều khiển trên cùng của máy ảnh. Thay vào đó là hai nút lớn màu đỏ để khởi động nhanh chức năng quay video độ nét cao và chế độ chụp ảnh thông minh iA mà không cần xoay nút xoay chế độ quay. Mặt sau của máy vẫn giữ nguyên hệ thống 5 phím điều hướng và một số phím điều chỉnh đơn giản. Tương tự như G1 trước đây, ống ngắm của máy ảnh mở rộng ra xa, nếu không gian chụp hơi chật sẽ gây mất cân đối và gây bất tiện cho người dùng.

Màn hình G2 có chức năng xoay 180 độNghiêm túc là hệ thống bản lề và trục tròn thiết kế bên hông máy. Do tính linh hoạt của màn hình, người dùng có thể thoải mái sáng tác ảnh trong những tình huống chụp khó khăn, chẳng hạn như đặt máy ảnh trên mặt đất hoặc trên đầu. Bạn thậm chí có thể xoay màn hình hoàn toàn về phía trước để chụp ảnh chính mình hoặc hiển thị hình ảnh tương tự cho người khác. Màn hình LCD vẫn duy trì kích thước lớn 3 inch và độ phân giải cao 460.000 điểm ảnh. Cảm biến tự động điều chỉnh độ sáng và màu sắc của màn hình LCD theo môi trường xung quanh, vì vậy bạn có thể chụp và xem ảnh ngoài trời nắng mà không cần quan tâm nhiều hơn đến cài đặt máy ảnh. Ngoài ra, công nghệ cảm ứng còn cho phép người dùng lấy nét, chụp ảnh và thay đổi cài đặt chỉ bằng cách chạm vào màn hình.

— Màn hình cảm ứng có thể giúp người dùng lấy nét, chụp ảnh và thay đổi cài đặt bằng một phím. Nhiếp ảnh: Trần Hà.

Do chia nhỏ camera 3/4 siêu nhỏ nên G2 không được trang bị cơ chế gương như một chiếc DSLR thực thụ. Kính ngắm điện tử (EVF) của máy có độ phân giải 1,4 triệu pixel, tỷ lệ bao phủ là 100% và độ phóng đại 1,4 lần. Thử nghiệm thực tế cho thấy so với các máy ảnh du lịch sử dụng kính ngắm điện tử khác như Nikon P100 hay Canon SX20 IS, kính ngắm điện tử cho hình ảnh sáng và rõ nét hơn. Độ tương phản được hiển thị tốt trong cửa sổ, nhưng màu có xu hướng bị ngả xanh. Với tốc độ quét lên đến 60 khung hình / giây, thông tin cảm quang được gửi đến kính ngắm điện tử gần như ngay lập tức, giúp giảm thiểu độ trễ và trôi khi chụp các vật thể chuyển động. Kính ngắm điện tử của G2 cũng có thể hội tụ tối đa +/- 4 đi-ốt, rất hữu ích cho những người bị cận hoặc viễn không muốn dùng kính để chụp ảnh. Độ phân giải quang học MOS Live 12 triệu điểm ảnh, bằng 3/4 kích thước tiêu chuẩn 17,3 x 13 mm (tiêu cự bội số khoảng 2 lần). Cửa chớp sẽ mở khi tháo ống kính, vì vậy người dùng cần hết sức cẩn thận để tránh bụi xâm nhập từ bên ngoài vào bề mặt cảm quang. Ngoại trừ giáThiết lập mặc định là 4: 3, ngoài ra máy còn hỗ trợ ghi ảnh với tỉ lệ 3: 2, màn hình rộng 16: 9 và lưới 1: 1. Được sử dụng vi xử lý Venus Engine HD II thế hệ mới, máy có thể nâng dải nhạy sáng lên ISO 6400 và chụp liên tục với tốc độ 3,3 khung hình / giây, nhanh hơn một chút so với người tiền nhiệm G1. Thử nghiệm thực tế cho thấy tốc độ chụp nhanh của G2 chỉ phù hợp với 9 ảnh JPEG hoặc 5 ảnh RAW đầu tiên, nếu sử dụng ảnh JPEG thì tốc độ chụp của G2 giảm xuống khoảng 2,3 fps, còn nếu ghi ảnh RAW thì giảm xuống. đến 1,8 giây. Thời gian phục hồi của bóng đèn cũng đáng thất vọng, nếu sử dụng công suất tối đa thì sẽ mất tới 4 giây.

Tương tự như các máy ảnh dòng ba phần tư siêu nhỏ, Panasonic G2 tập trung vào cơ chế so sánh độ tương phản 23 điểm trong khung hình. Nó cũng hỗ trợ tính năng theo dõi chủ thể (AF tracking) và nhận diện khuôn mặt (Face ID) như một số máy ảnh du lịch cao cấp. Tốc độ lấy nét tuy không nhanh bằng máy ảnh DSLR “đời cũ” nhưng so với “người tiền nhiệm” G1 thì tốc độ lấy nét đã được cải thiện đáng kể, và so với các đối thủ cùng loại của Olympus và Samsung thì cũng khá ổn.

Ở ISO 1600, hình ảnh được cung cấp bởi ba kiểu máy “mini 3/4” rất lớn. Trên ảnh G2, vùng màu vàng xung quanh khung ảnh có màu xanh lam nhạt. Máy ảnh Panasonic không thể có sọc đen trên nền đỏ, đồng thời thuật toán khử nhiễu cũng làm ảnh tối hơn. Đồng thời, đối thủ Olympus E-P1 có vẻ nhỉnh hơn về độ rõ nét và khả năng tái tạo chi tiết ở những vùng có độ tương phản cao. Ảnh: Nguồn ảnh.

Panasonic G2 vẫn sẽ bị méo màu như phiên bản trước nhưng cũng không quá đáng ngại. Các bức ảnh rất nịnh mắt khi chụp đủ sáng. Hai sắc độ xanh đỏ hơi sáng hơn bình thường (khoảng 7%) nên đôi khi người dùng không cần phần mềm xử lý mà ảnh vẫn sống động như thật. Độ tương phản rất tích cực trong các vùng tối hoặc màu trung tính, có thể làm người xem khó chịu một chút. Nhìn chung, so với các máy định dạng Micro tứ quý khác, Lumix G2 cho chất lượng hình ảnh khá tốt. Nó cũng cho phép bù bão hòa m & agrav.e; u lên tới 5 mức nhưng sự thay đổi hầu như không đáng kể, thậm chí nếu tăng lượng màu lên +2 thì ảnh vẫn bình thường.

Chức năng cân bằng trắng và đo sáng của G2 rất hiệu quả trong điều kiện ánh sáng ngoài trời. Tuy nhiên, khi chụp trong nhà dưới nguồn sáng nhân tạo, máy lại bộc lộ một số điểm yếu. Một chút thiếu sáng sẽ làm mất một số chi tiết tối của nền và khuôn mặt. Cân bằng trắng tự động dưới ánh sáng đèn sợi đốt rất tốt, và ảnh hơi nóng. Tuy nhiên, khi “Cân bằng trắng sợi đốt” trở về chế độ “Cân bằng trắng sợi đốt”, hình ảnh trở nên vàng nghiêm trọng. Hiệu quả khử tiếng ồn của máy không tốt hơn người tiền nhiệm G1. Mặc dù dải động đã tăng gấp đôi nhưng khi tăng ISO lên 400, các hạt sẽ xuất hiện. Ở ISO cao hơn, hình ảnh bắt đầu bị mờ và mất chi tiết ở các vùng có độ tương phản cao. Ngay cả do quang sai màu, hình ảnh do G2 cung cấp ở cài đặt ISO rất cao trông hấp dẫn hơn so với người tiền nhiệm Panasonic G1 và Olympus E-P1.

Panasonic G2 sử dụng 3/4 cảm biến quang điện MOS. Khi ống kính được tháo ra, cửa trập vẫn mở. Ảnh: Trần Hà .

Bộ ống kính 14-42mm f / 3.5-5.6 cho độ sắc nét trung tâm ấn tượng. Tuy nhiên, vùng ảnh ở rìa hơi mờ và có một số sắc sai. Hiện tượng méo ảnh không lớn khi chiều rộng tối đa là 14mm, hiện tượng này sẽ tự động được sửa khi ảnh được lưu ở định dạng JPEG nén. Tính năng tự động lấy nét rất nhanh và không gây ồn, ngay cả khi đặt máy gần tai, người dùng cũng khó nghe thấy tiếng ồn.

G2 cũng hỗ trợ quay video HD 720p, AVCHD Lite hoặc định dạng nén. QuickTime thể thao. Do được hỗ trợ bộ vi xử lý Venus Engine HD II mới nên chất lượng video có phần nhỉnh hơn phiên bản G1. Đáng chú ý nhất, máy ảnh có chức năng theo dõi tự động lấy nét liên tục, và sẽ sử dụng một số điều khiển cảm ứng trên màn hình khi quay video ngắn. So với người tiền nhiệm được phát hành sáu tháng trước, Panasonic G2 có một. Kỹ thuật số cải thiện đáng kể hiệu suất, đặc biệt là chất lượng hình ảnh. Do ưu điểm về kích thước và khả năng thay thế cho nhau nên máy ảnh rất phù hợpĐầu tiên, nó là lựa chọn tốt nhất cho những người đam mê du lịch, hoặc là lựa chọn “dự phòng” cho các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp. Dù có hiệu năng vượt trội nhưng máy không thực sự tạo được đột phá lớn ở dải “vi ba phần tư”, và nó vẫn không bằng DSLR “cũ” hay một số dòng máy ảnh “lai” mới. Sản phẩm dự kiến ​​sẽ được bán ra với giá xấp xỉ 18 triệu đồng vào tháng 9 với giá của ống kit 14-42mm f / 3.5-5.6.

Cấp sản phẩm

Trần Hà

Leave a Comment

Your email address will not be published.